Chuyện về Luật sư người Việt điều hành hãng luật quốc tế nổi tiếng Baker McKenzie Vietnam

Đây là bài viết cực kỳ đáng đọc, đáng suy ngẫm và đã truyền rất nhiều cảm hứng, động lực cho mình (cũng như cho nhiều bạn (cựu) sinh viên luật, người hành nghề luật khác – mình mãnh liệt tin là vậy).

Trần Mạnh Hùng – Luật sư điều hành đồng thời là Giám đốc Công ty Luật TNHH quốc tế BMVN (liên minh với Baker McKenzie), trọng tài viên #VIAC, người trẻ nhất trong lịch sử hãng luật lớn nhất thế giới được đề bạt vào vị trí local partner (tạm dịch “luật sư chủ hợp danh”) năm 30 tuổi. (Xem thêm: https://tuoitre.vn/luat-su-ngoai-le-137671.htm)

Thời khắc lịch sử mùa thu năm 1995, khi LS Trần Mạnh Hùng, K15 HLU, quyết định ở lại Hà Nội thay vì vào công tác tại BIDV Gia Lai tận Tây Nguyên, đó cũng là một công việc tốt thời đó mà không phải ai cũng có cơ hội bước chân vào, nếu không có thể bây giờ chúng ta được thưởng lãm hồi ức của một sếp ngân hàng chứ không phải hồi ức của vị Luật sư điều hành Hãng luật nổi tiếng thế giới Baker McKenzie.

Sinh trưởng trong một gia đình nghèo của miền Trung thời tiết khắc nghiệt, vùng quê địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống hiếu học, Trần Mạnh Hùng luôn ấp ủ giấc mơ cháy bỏng trở thành luật sư, giúp gia đình thoát nghèo. Chàng trai ấy được trúng tuyển vào lớp chuyên văn Trường Phan Bội Châu, không bao lâu sau, chàng cũng trở thành văn nhân nổi tiếng của những người trường Phan!

Có thể nói tình yêu mà Hùng dành cho Trường Phan và Trường Luật là như nhau, nơi nào cũng ghi dấu ấn của anh, nơi nào cũng là đất phát của anh, tạo cho anh những nền tảng vững chắc để anh đi tiếp và nơi nào cũng được anh trân trọng dành cho những tình cảm yêu quý, những dòng hồi ức xúc động. Trong cuốn Phan Nhân 1972, phần Hồi ức của anh là ” Những ô cửa ký túc” viết về những tháng ngày trui rèn ở ngôi trường danh giá nhất xứ Nghệ thế này “Ký túc xá là những ô cửa đầu tiên của tôi. Từ đó, tôi nhìn ra thế giới rộng lớn, thấy mình và những người quanh mình thật là “vi diệu”.

Kỷ niệm các bạn nhớ nhất ở Hùng là suốt ngày thấy anh hầu như ngồi lỳ trên thư viện trường Luật, anh học, anh đọc nhiều thể loại sách, bên cạnh môn học chuyên môn. Tôi thì nhớ là Mr Hùng lúc nào cũng thấy kẹp mấy quyển sách tiếng Anh bên dưới một đống sách khác, đôi mắt sáng, nụ cười dễ mến luôn là điểm nhấn chàng sinh viên xứ Nghệ!

Thật khâm phục ý chí, năng lực nội sinh mạnh mẽ, trí tuệ trác việt trong con người bé nhỏ ấy!

Ở anh luôn là quá trình tự học, tự thân phấn đấu. Đối với người bình thường thì học làm chủ chuyên môn đã là quá vất vả chứ chưa nói gì đến học và làm chủ ngôn ngữ thứ 2, sử dụng thành thạo tiếng Anh thông qua những cách học rất độc đáo! Anh liên tục chính phục hết đỉnh cao này đến đỉnh cao khác, giành được rất nhiều giải thưởng danh giá của quốc tế dành cho Luật sư. Được biết, đã từ lâu mức thù lao trả cho đẳng cấp luật sư như anh được tính bằng giờ! Rât nhiều bài báo trong và ngoài nước viết về anh.

Bắt đầu từ vị trí trợ lý luật sư, Mr Hùng đã trở thành Luật sư điều hành Hãng luật quốc tế nổi tiếng, một trong những hãng luật lớn nhất thế giới Baker McKenzie. Công việc rất bận rộn nhưng anh vẫn không quên HLU, hàng năm anh vẫn dành thời gian về giúp đỡ Trường, giúp đỡ sinh viên, thổi cho các em niềm đam mê, ý chí vươn lên!

Qua hồi ức của anh ta thấy một Trần Mạnh Hùng, thủy chung với mối quan hệ bạn bè, đồng nghiệp, bao nhiêu năm qua tình thân của anh với họ không thay đổi!

Anh là một con người đa tài, có thể nói là 3 trong 1: Luật, tiếng Anh, Văn thơ!

Trần Mạnh Hùng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ mẹ, hiện cách anh phụng dưỡng mẹ làm nhiều người ghen tỵ!

HLU tự hào có những luật sư danh tiếng như Trần Mạnh Hùng, anh cũng là thành viên Ban liên lạc Hội cựu sinh viên HLU!

Hà Nội, tối muộn 01/10/2019
Nguyễn Văn Biên
PCT Thường trực, kiêm Tổng thư ký Hội cựu sinh viên HLU
Fb : Bien Nguyen

-///:::::—/////////

Từ trường Luật đến hãng Luật – Trần Mạnh Hùng
(Luật sư điều hành Công ty Luật quốc tế Baker McKenzie, Cựu sv Kinh Tế K15)

Trưa hôm qua, ngồi bên hiên thư viện của Làng Mít, gió thu lao xao, chị Ngọc Hoa, trong tay cầm cuốn “Bông Hồng Vàng” của Paustovsky (Константин Георгиевич Паустовский), quay sang tôi và nói:

“Chị muốn ai đó viết về thời bao cấp của chúng ta, viết bằng ngôn ngữ có thể chạm đến lũ trẻ con nhà chị bây giờ, không sáo rỗng, và cũng không bị chúng nó thờ ơ phán: Thời đó ai chả thế, nhạt nhẽo!”

Chị Ngọc Hoa và tôi (cùng chị Cúc Hà) là những người bạn rất thân từ thời học chuyên văn Phan Bội Châu (Nghệ An). Chúng tôi có một ngày bên nhau tại Làng Mít, ôn lại những kỷ niệm cũ, và dành rất nhiều thời gian để nói về văn chương thay vì luật pháp, dù cả hai chúng tôi cùng tốt nghiệp luật. Chị Ngọc Hoa học tiến sỹ luật ở Kiev (thủ khoa đầu vào K13, Đại học Luật Hà Nội). Còn tôi, sau khi tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội (K15), làm cho vài hãng luật quốc tế, rồi qua Nhật Bản lấy bằng thạc sỹ luật thương mại quốc tế.

Đang miên man với cơ man nào là gió, với sóng sánh nắng thu thì nhận được tin nhắn của nhà văn Nguyễn Đình Tú, cậu bạn trong Câu lạc bộ thơ trường Luật năm xưa: “Cậu viết gì đó về những luật sư quốc tế như cậu cho cuốn sách ra mắt vào dịp Hội khóa 40 năm trường mình đi. Nhiều người kể khổ quá rồi. Cậu đừng kể khổ nữa nhé”.

“Khổ”, đúng là món đặc sản của sinh viên thời chúng tôi, nhưng ngoài cái “khổ” về vật chất và thiếu thốn về tinh thần, cái khổ nhất, có lẽ là không dám mơ ước, dấn thân và đeo bám ước mơ của mình.

Tôi để chị Ngọc Hoa và chị Cúc Hà sang một góc thư viện và cầm bút viết những dòng này – những tâm sự của một cựu sinh viên luật, về hành trình nhỏ từ trường Luật đến Hãng luật Quốc tế.

Hà Nội bốn mùa

Năm 1995, sau khi cầm tờ quyết định thử việc từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Gia Lai, tôi bắt xe khách ra Hà Nội cắt giấy tờ.

Và tôi đã quyết định ở lại Hà Nội. Đó là một chiều mùa thu như bây giờ. Sơn, người bạn thân của tôi vừa tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân, chở tôi bằng con xe máy sang nhất thời đó (xe Honda 82) đi một vòng Hồ Tây. Bạn bè tôi ra nước ngoài định cư hoặc vào Nam khá nhiều, nhưng Hà Nội với tôi quá da diết: biêng biếc như hoa đào mùa xuân; cắm cảu như thằng bạn ẩm ương của tôi mỗi dịp hè sang; như vệt nắng sóng sánh Hồ Tây vào thu; và như chiếc khăn len ấm áp vào đông…

Tôi quyết định “rải CV” xin việc.

Sau một tuần rải CV thì tôi nhận được “offer” đầu tiên từ Công ty luật Leadco, qua giới thiệu của một anh luật sư mà tôi quen khi về trường Luật trao học bổng thay mặt công ty luật Russin & Vecchi (Hoa Kỳ).

Ngày đầu tiên đi làm, anh phụ trách của Leadco nói với tôi: “ở đây không có lương. Nếu em làm tốt, em sẽ được tham gia vào một số dự án FDI, và các anh sẽ cân nhắc thù lao cho em”.

Sau một tuần đọc tài liệu và làm quen với công việc, tôi vẫn không thấy ai giao việc gì cho mình. Sang tuần thứ hai, tôi có hỏi hai bạn trạc tuổi tôi để xin việc, nhưng các bạn ấy cũng không đủ việc để làm hoặc có thể chưa tin tưởng tôi, nên tôi cũng không nhận được một công việc gì. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ, nếu không được giao việc, nghĩa là sẽ đói, mà tôi thì không có một khoản dành dụm nào để tiếp tục ở lại cho đến khi được giao việc.

Rào cản ngoại ngữ và “Deal” đầu tiên với Malaysia

Trên đường từ Leadco về làng Quan Hoa (Cầu Giấy), tôi vô tình nhìn thấy biển một công ty tư vấn đầu tư ở Láng Hạ. Tôi dựng chiếc xe đạp mini Trung Quốc ở xa cổng ra vào (chiếc xe mà tôi mượn được của một chị bạn), chỉnh đốn lại trang phục, đứng ngoài cổng một lúc cho mồ hôi đỡ ướt át, rồi bước vào sảnh công ty, đĩnh đạc như trong phim.

Tiếp tôi là một anh giám đốc có đôi mắt rất vui. Anh tên là Tuyến, tiến sỹ kinh tế ở Liên Xô cũ về Hà Nội lập nghiệp. Anh đưa cho tôi bài dịch và bảo tôi viết ra giấy. Bài dịch không quá khó vì tôi vẫn mua báo cũ tiếng Anh về đọc, và hồi năm thứ tư trường Luật, tôi vẫn ngồi nghe lỏm chương trình truyền hình tiếng Anh phát từ nhà bác Giáp ở khu Luyện Kim (Cát Linh), nơi tôi trọ học.

Anh Tuyến cầm bản dịch của tôi, khen chữ tôi đẹp và hành văn trôi chảy. Có lẽ do chữ tôi đẹp thật và chất chuyên văn vẫn còn ngấm vào máu, nên tôi được nhận vào làm ngay, chứ thực ra vốn tiếng Anh của tôi vẫn chưa thực sự ổn. Anh Tuyến nói với tôi: “Lương của em là 500 ngàn đồng/tháng và công ty bao ăn cơm trưa”.

Thực sự, lúc nghe anh Tuyến nói đến bữa cơm trưa, tôi đã thấy ấm dạ quá rồi.

Những tháng đầu tiên ở công ty anh Tuyến, tôi được giao rất nhiều việc liên quan đến dịch thuật, đặc biệt là dịch hợp đồng liên doanh và viết luận chứng kinh tế kỹ thuật (những phần liên quan đến pháp lý và tác động của kinh tế xã hội). Anh Tuyến là nhà kinh tế học nên anh ấy và anh Linh (sau này là anh Hòa) phụ trách phần tính toán kinh tế.

Tôi trở thành một thợ dịch và thợ viết luận chứng kinh tế rất nhanh. Anh Tuyến rất thích hành văn của tôi. Cho đến bây giờ, chị Ngọc Hoa và tôi vẫn thường “tự trào” với nhau: học giỏi môn văn thực sự là một lợi thế.

Nhưng có lẽ rào cản lớn nhất của tôi vẫn là nghe nói tiếng Anh (vì tôi chỉ học viết và dịch là chủ yếu).

Cơn ác mộng lớn nhất là khi tôi được giao nhiệm vụ dịch đàm phán cho một khách hàng Malaysia và một đối tác Việt Nam chuyên sản xuất đồ ăn từ bột mì. Hôm đó chị phiên dịch công ty tôi bị ốm đột xuất, và anh Tuyến cử tôi đi dịch thay. Đó là lần đầu tiên tôi làm phiên dịch cho một phiên đàm phán lớn. Tôi đã thức trắng cả một đêm để đọc như thuộc bản Hợp đồng liên doanh bằng tiếng Anh và tra từ điển tất cả những từ nào mà tôi cho là liên quan đến ngành thực phẩm. Cho dù vậy, buổi dịch vẫn diễn ra vô cùng trục trặc vì tôi không hiểu hết ý của đối tác nước ngoài, mà quan trọng nhất vẫn là tâm lý hoang mang của một thanh niên “lần đầu tiên làm chuyện ấy”.

Làm ở công ty anh Tuyến một thời gian, tôi bắt đầu nhớ nghề luật. Tôi bắt đầu tìm hiểu những cơ hội làm việc ở các công ty luật nước ngoài. Gần một năm sau, đó là năm 1996, tôi gần như cạn kiệt với hy vọng làm cho một công ty luật nước ngoài nào đó.

Trong lúc đang loay hoay tìm kiếm cơ hội cho mình thì công ty anh Tuyến đón một Luật sư người Mỹ về làm đối tác. Ông là Greg Buhyoff (sau này tôi gọi vui là “Bùi Đồng Chí”).

Greg đại diện cho Công ty Luật Kojima (Nhật Bản), mượn trụ sở công ty anh Tuyến làm việc và tìm cơ hội hợp tác. Đó thực sự là một cơ hội vô cùng tốt cho tôi để học tiếng Anh và viết “memo” theo kiểu luật sư Mỹ.

Tôi đã dành tất cả mọi cơ hội để được nói chuyện với Greg và tự nguyện làm các nghiên cứu nhỏ về các vấn đề pháp lý của Việt Nam. Nhưng có lẽ điều tôi cay đắng nhất nhận ra khi làm việc với Greg, đó là toàn bộ phần phát âm tiếng Anh của tôi gần như vứt đi. Tiếng Anh của tôi thời đó có lẽ na ná như giọng phát thanh viên của các cô giáo tiếng Nga chuyển sang nói tiếng Anh trên truyền hình quốc gia. Có những lúc tôi nói mà Greg không hiểu gì, hoặc hiểu sang một từ khác, và điều đó làm tôi rất buồn. Tôi nhớ lại năm 1990 khi nhập học trường Luật, khi nhìn thấy hồ sơ của tôi học tiếng Nga ở cấp III, các cô ở giáo vụ đã “auto” cho tôi học thêm 5 năm tiếng Nga ở trường Luật. Trong lúc một số bạn tôi người Hà Nội cố xin sang học lớp tiếng Anh thì tôi lại ung dung học tiếng Nga, vì cho rằng, học tiếng Nga sẽ nhàn hơn để học thêm một ngoại ngữ khác. Nhưng sau này mới biết rằng, việc học hai ngoại ngữ một lúc không dễ dàng đối với một tân sinh viên 16 tuổi từ quê ra tỉnh như tôi.

Quay lại câu chuyện học tiếng Anh.

Sau khi đã khá thân với Greg, tôi mua băng cassete (loại đã thu đi thu lại nhiều lần ở Chợ Trời) về nhờ ông ấy thu tiếng lại cho tôi nói và học theo. Sau gần một năm làm việc ở công ty anh Tuyến thì Greg về nước.

Trước khi đi, Greg tặng tôi cuốn “Black Law Dictionary” với dòng chữ: “Tôi tin là cậu sẽ thành công trong nghề luật”. Tôi đã giữ mãi cuốn từ điển pháp lý này hàng chục năm, kể cả khi sang Nhật du học và khi trở về Việt Nam.

Greg về nước.

Tôi lại tiếp tục tìm cơ hội làm việc cho các công ty luật nước ngoài. Do đó, tôi tự nguyện làm bất kỳ việc gì có liên quan đến người nước ngoài, kể cả việc ra sân bay chờ và đón khách quốc tế cho công ty. Có hôm tôi được giao ra Nội Bài đón khách về công ty làm việc. Trong lúc chờ khách, tôi lân la làm quen với một người nước ngoài đứng cách tôi hai hàng khách đang chờ đợi. Đó là Andrew Messenger (một luật sư người Úc), trưởng đại diện của công ty luật Freehills Holdings tại Hà Nội. Tôi xin danh thiếp của anh ấy và về nhà tiếp tục gửi CV xin việc. May mắn nhất của tôi là được Andrew mời đến trụ sở công ty tại số 15 Chân Cầm (Hà Nội), và ở đó, tôi gặp chị Cẩm Tú (một người chị học trên tôi một khóa ở trường Luật). Tôi không được nhận vào Freehills Holdings, nhưng tôi có thêm một người bạn, một người chị là Cẩm Tú. Và chúng tôi vẫn thân thiết với nhau đến tận bây giờ, kể cả khi chị là khách hàng của hãng luật mà hiện tôi đang làm việc.

Villa Pháp và ô cửa màu xanh

Tôi tiếp tục hành trình tìm việc cho mình.

Một hôm trời rất lạnh, có lẽ đó là khoảng tháng 11 năm 1996, tôi được nghỉ phép một hôm và quyết định cầm CV đi gõ cửa xin việc. Tôi có trong tay địa chỉ một vài công ty luật nước ngoài và bắt đầu nhắm mục tiêu vào một số công ty luật của Pháp và Anh.

Tôi đến đường Trần Hưng Đạo, gõ cửa một biệt thự Pháp màu trắng với những ô cửa màu xanh. Sau một hồi chuông thì có tiếng từ loa an ninh. Tôi nói là mình vào nộp hồ sơ xin việc. Tiếng từ loa an ninh vụt tắt – nhanh như một đốm diêm trước gió. Tôi tiếp tục ấn chuông và thuyết phục người đang nói chuyện cho tôi vào nộp hồ sơ là ra ngay và hứa là mang theo chứng minh nhân dân.

Tôi may mắn được phép bước chân vào căn villa rất đẹp đó. Sau này, khi đã đi hơn 40 nước, ở những villa và khách sạn đẹp nhất, tôi vẫn không quên được mùi thơm tho của căn biệt thự đó, với tấm thảm đỏ, chiếc đèn ánh vàng trên tủ và khung cửa sổ nan màu xanh…

Trong tích tắc, tôi thấy một thanh niên khoảng hơn tôi vài tuổi, đeo kính cận, thắt ca-vát đi xuống cầu thang gỗ cùng một Luật sư người Pháp. Ông nói tiếng Pháp. Tôi đưa ánh mắt cầu cứu sang cậu người Việt. Lúc đó, tôi thấy giận mình quá đỗi vì đã bỏ ngang lớp tiếng Pháp cấp tốc ở Trung tâm Pháp Ngữ Hai Bà Trưng.

Tôi không được nhận vào công ty luật của Pháp. Đó là công ty Siméon & Associés. Nhưng trong lúc sắp rời khỏi căn villa đó, tôi đã kịp nói chuyện với Cường, người giúp tôi dịch trong cuộc phỏng vấn.

Cường hơn tôi một tuổi, rất lịch lãm, học chuyên Pháp ra và là luật sư tập sự duy nhất ở Siméon & Associés tại Hà Nội. Tôi xin được số điện thoại ở nhà của Cường. Thỉnh thoảng tôi vẫn gọi điện từ hàng xóm hỏi thăm Cường xem có cơ hội nào cho tôi không.

Có lẽ Cường cũng cảm thấy bị làm phiền, nhưng lâu lâu thì thành quen.

Gide Loyrrette Nouel

Cho đến đầu tháng Giêng năm 1997, bác Nhị (hàng xóm bên cạnh phòng trọ của tôi ở làng Quan Hoa) gọi tôi sang nhà nghe điện thoại của Cường.

Từ lúc quen Cường, tôi là người gọi cho cậu ấy. Tối hôm đó, tôi líu ríu chạy sang nhà bác Nhị nghe điện thoại của Cường. Bác Nhị mất cách đây vài năm. Tết năm ngoái, tôi cũng mới có dịp quay lại nhà bác, thắp cho bác một nén nhang.

Cường báo với tôi là cậu ấy đã nghỉ việc ở công ty luật cũ và vừa sang làm việc cho một công ty luật khác của Pháp, tên là Gide Loyrrette Nouel (GLN). Tôi lí nhí trong điện thoại: “Chúc mừng Cường nhé!”. Giọng tôi buồn thiu khi nghĩ đến mình. Cường bỗng cười trong điện thoại và bảo: “Bên tôi cần tuyển một cử nhân luật và dịch được tiếng Anh”. Tôi reo lên trong điện thoại: “Cường giới thiệu tôi đi!” Cường bảo tôi cập nhật lại CV xin việc và mang đến văn phòng cậu ấy ở khách sạn Sofitel Metropole (đường Ngô Quyền).

Ngày hôm sau tôi mang theo CV xin việc và lên tìm Cường ở công ty GLN.

Cường bảo tôi chờ một chút, đưa cho tôi cốc nước mát lạnh. Một lúc sau Cường xuất hiện cùng một cô luật sư người Pháp mũi rất cao và mắt cực xanh. Và tôi được phỏng vấn ngay lập tức. Phỏng vấn xong, cô luật sư người Pháp mỉm cười hài lòng và đưa cho tôi một bản dịch, rồi cùng Cường rời khỏi phòng họp.

Tôi cắm cúi làm, đọc đi đọc lại bản dịch tiếng Anh của mình. Và tại thời điểm đó, tôi nghĩ: hoặc là sống hoặc là tiếp tục “chết chìm” với những tháng ngày phía trước.

Tôi chia tay Cường cùng cô Luật sư người Pháp, và ngồi “trực” điện thoại ở nhà bác Nhị trong vòng một tuần. Một tuần sau Cường gọi cho tôi và báo: “Cậu thi trượt rồi!”. Tôi khóc như mưa trong điện thoại. Cường cười phá lên: “Cậu được nhận rồi. Khao đi!”

Tôi lên công ty GLN lấy thư chấp nhận đi làm, gọi là “Offer Letter”, với mức lương là 250 Đô La Mỹ/tháng! Tôi đã ôm cái Offer Letter đó không ngủ hai đêm liền.

Chưa kịp vui vì mức lương từ 500 ngàn/tháng lên 250 Đô La Mỹ/tháng thì chuỗi ngày tiếp theo của tôi là một ác mộng.

Ngoài việc phải dịch rất nhiều các tài liệu tiếng Anh ra, có lẽ điều làm tôi cảm thấy áp lực nhất là cách làm việc với các luật sư Pháp. Họ đưa ra câu hỏi và ngay lập tức xuất hiện ở bàn làm việc của mình để có câu trả lời. Từ một môi trường làm việc rất thoải mái ở công ty anh Tuyến, tôi bước vào một văn phòng luật sang trọng ở khách sạn 5 sao mà không biết ngày hôm đó những gì đang chờ đón mình.

Đã có lúc tôi cảm thấy quá căng thẳng và xin phép đi vệ sinh, nhưng thực ra, tôi đã ngồi đóng kín cửa trong phòng vệ sinh khoảng 15 phút để tĩnh lại. Lúc về đến văn phòng đã thấy cô Luật sư Pháp chờ sẵn với rất nhiều câu hỏi cần trả lời ngay. Tôi còn nhớ, có hôm cô Luật sư Pháp ngồi trong phòng làm việc gọi tên tôi, và tôi đứng phắt dậy như một cái máy. Cái Nguyệt (lúc đó là lễ tân kiêm thư ký của GLN) vẫn nhắc mãi chuyện này và cười sằng sặc khi nhìn thấy khuôn mặt thất thần của tôi lúc đó.

Sau này tôi, Nguyệt và Mai (một bạn thư ký khác của GLN) khá thân nhau, và tôi bắt đầu cảm thấy thoải mái hơn khi mở lòng với mọi người.

Trước khi rời khỏi GLN, tôi đã kịp tặng mỗi bạn một biệt danh: Nguyệt – “Nữ Hoàng Viva” (vì Nguyệt là người đầu tiên mua được chiếc xe Viva Suzuki) và Mai là “Bà Già Đan Len Bên Cửa Sổ” (vì lúc nào Mai cũng chầm chậm, kể cả khi cô Luật sư Pháp quát tháo ầm ĩ thì Mai vẫn thủng thẳng cãi lại, hoặc rủa thầm mà chỉ bạn ấy và Nguyệt nghe thấy).

Baker McKenzie – Khởi đầu và Hành trình

Áp lực công việc là một phần, nhưng có lẽ tôi cảm thấy mình lạc lõng ở GLN, khi tất cả mọi người đều nói tiếng Pháp. Do đó, tôi lại bắt đầu tìm kiếm công việc mới. Hồi đó, tôi chỉ ước, giá như mỗi ngày đến công ty sẽ chỉ được nghe và nói tiếng Anh. Tôi bắt đầu nộp đơn vào Baker McKenzie (“B&M”). Có lần tôi đang đi bộ gần vỉa hè của Ngân Hàng Nhà Nước thì gặp lại Greg. Tôi nói với Greg là đã nộp đơn vào B&M, và sau đó đưa cho Greg một bản CV xin việc (với thêm mấy tháng kinh nghiệm làm cho GLN).

Khoảng đầu tháng 5 năm 1997 tôi nhận được lời mời đi phỏng vấn ở B&M. Người phỏng vấn tôi là ông Mark Lockwood, với đôi mắt xanh cực kỳ thông minh và tiếng Anh giọng Úc cao veo vút. Mark hỏi rất nhiều về những công việc tôi đang làm và tại sao tôi muốn rời khỏi GLN. Tôi thật thà nói rằng hàng ngày tôi không được tham gia bàn thảo và nói chuyện trực tiếp công việc, vì ở GLN, ngôn ngữ làm việc chính là tiếng Pháp. Mark hẹn tôi sẽ gọi điện lại sau khi phỏng vấn.

Một tuần, rồi một tháng. Sau nhiều lần tôi gọi đến B&M thì vẫn chưa có quyết định gì. Vào tháng 6 năm 1997, tôi được gọi đi phỏng vấn tiếp.

Lần đó, tôi được gặp ông Cole Capner từ Hong Kong qua. Cole là người Mỹ, và là một trong những Luật sư Hợp danh chính của B&M làm việc tại B&M Hong Kong. Cole hỏi tôi rất nhiều về việc học của tôi ở trường Luật. Sau đó, Cole đưa cho tôi một văn bản luật đã được dịch sang tiếng Anh, bảo tôi tóm tắt lại bằng nửa trang giấy.

Một lần nữa tôi thầm cảm ơn các thầy ở trường Phan đã dạy tôi viết lách rất kỹ, từ cách viết dài thành ngắn và từ ngắn thành rất súc tích mà vẫn đủ ý. Và tôi cũng thật sự biết hơn hai năm học Đại học Đại cương ở trường Luật với môn Ngữ văn/ Kỹ thuật Xây dựng Văn bản, là môn nhiều sinh viên “chết” nhất, với những bài thi khó về xây dựng văn bản và các bài tập ngữ pháp nâng cao. Đó cũng là một trong những môn mà tôi được điểm 9 lúc học năm thứ hai trường Luật ở Quán Gánh (Thường Tín cũ). Tôi vẫn nhớ như in đề thi hết học phần môn Ngữ văn/ Kỹ thuật Xây dựng Văn bản, trong đó có mấy bài tập rất khó về dựng lại văn bản và phân tích cấu trúc ngữ pháp của câu.

Sau này, trường Luật chỉ học 4 năm (thay vì 5 năm như thời của chúng tôi, và cũng không còn đại học đại cương trong hai năm đầu). Thời của chúng tôi, dù khác biệt, nhưng thú vị, vì trước khi được chọn vào học chuyên ngành luật, chúng tôi phải học và tốt nghiệp đại học đại cương, với các môn nền móng như ngữ văn, toán cao cấp, kinh tế chính trị, logic học, xác suất thống kê, ngoại ngữ, lý luận chung về nhà nước và pháp luật, triết học… Sau hai năm đại học đại cương, trường luật sẽ xét tuyển một số sinh viên được lên thẳng học luật. Nếu không nằm trong danh sách xét thẳng đó thì sinh viên phải thi vào chuyên ngành luật – một kỳ thi đại học sinh tử thứ hai! Tôi vẫn giữ tấm bằng đại học đại cương đó như một kỷ vật của mình. Có lẽ vì thế mà mọi người vẫn dí dỏm: trước khi học “Luật Harvard” ở Láng Trung thì phải tốt nghiệp đại học đại cương.

Tôi đưa bài tóm tắt của mình cho Cole và cùng ông ấy thảo luận các ý chính trong bản tóm tắt đó. Cole hẹn với tôi sẽ gọi điện trở lại trong thời gian tới.

Đầu tháng 7 năm 1997 thì tôi được gọi lại phỏng vấn thêm một lần nữa. Lần này tôi gặp lại Greg, ông Luật sư Mỹ người quen. Greg nhìn tôi, vừa lạ lẫm, vừa kiêu hãnh, không giống một người quen cũ. Tuy vậy, giọng Mỹ đặc trưng của ông vẫn đầy thiện cảm. Greg cho tôi đọc một điều khoản trong Bộ Luật Dân Sự về Quyền Tác Giả và bảo tôi bình luận về điều khoản này. Tôi thực sự lúng túng vì cách ra đề bài của Greg, nhưng tôi cũng kịp phản ứng rất nhanh khi được hỏi về việc chuyển giao quyền theo Bộ Luật Dân Sự. Một lần nữa, tôi thấy mình may mắn được học rất chắc các luật gốc tại trường Luật, nơi mà các giáo viên được đào tạo rất cơ bản về dân luật.

Kết thúc phỏng vấn, ông Mark cũng xuất hiện. Greg và Mark bắt tay tôi, hẹn ngày trả lời…

Cuối tháng 7 thì tôi nhận được một cuộc gọi từ lễ tân của B&M, nhắn tôi qua B&M gấp có việc. Tôi xin cô Luật sư người Pháp ra ngoài 1 tiếng. Tôi vẫn nhớ cái mũi rất cao của cô Luật sư người Pháp và ánh nhìn hoài nghi của cô ấy. Có lẽ là do tôi quá nhạy cảm…

Tôi bấm chuông ở căn biệt thự 41 Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm (Hà Nội). Cánh cửa tự động mở ra. Tôi bước vào khuôn viên căn biệt thự, thấy rất nhiều lá rụng trong vườn, và nắng tháng 7 chao chát. Chị Liên kế toán (giờ vẫn là đồng nghiệp của tôi từ năm 1997) đưa cho tôi một cái phong bì màu trắng, in logo B&M màu đỏ mận. Chị ấy bảo tôi: Ông Mark nhắn cậu đọc xong, ký và đi làm vào ngày 4/8/1997!

Tôi xin phép chị Liên cầm bức thư nhận việc ra ngoài hành lang đọc. Mùi tờ giấy trắng và chữ ký bằng bút bi xanh của ông Mark thơm ngái. Và từ ngày 4/8/1997, tôi đã thực sự bước sang một trang mới, một hành trình đầy thách thức, trải nghiệm, hào hứng và tự hào với B&M, cùng mức lương khởi điểm là 500 Đô La Mỹ/tháng!

Sau hơn 20 làm việc với B&M, khởi đầu là một trợ lý luật sư cho đến vị trí của một Luật Sư Điều Hành tại Việt Nam, tôi vẫn thấy, mỗi ngày là một ngày mới. Và, chưa bao giờ, tôi cảm thấy phí một phút giây nào. Có những lao lực, có thật nhiều hy sinh, đôi khi có cả những mất mát không gọi tên, nhưng sâu thẳm trong lòng mình, tôi luôn tìm thấy năng lượng gốc của mình, như cách mà tôi đang ngồi đây, nhìn mặt hồ lấp lánh nắng, hiu hiu gió chiều, với những người bạn, đồng nghiệp cạnh bên. Hạnh phúc thực sự là một hành trình chiêm nghiệm, mà không phải là đích đến.

Tôi hy vọng sẽ có cơ hội tiếp tục kể câu chuyện thật nhiều xúc cảm trong hơn 20 năm đồng hành cùng B&M trong một cuốn hồi ký sắp tới, có tên là “Từ trường Luật đến hãng Luật”!

Viết tại Tomodachi Retreat – Làng Mít, ngày 30/9/2019
Trần Mạnh Hùng

#HLU #HLUalumni #TheFaceofHLU

Đây là bài viết rất hay mình đọc được trên trang FB HLU News nên chia sẻ lại với các bạn cùng đọc, ngẫm và cố gắng (Link bài viết: https://www.facebook.com/HLU.News/posts/3011306282273633/),

7 bài học quý báu của người sáng lập Hyundai: Muốn giàu có, thành công nhất định cần biết!

Hơn 80 năm cuộc đời, trải bao biến cố thăng trầm, Chung Ju Yung – nhà sáng lập Tập đoàn Hyundai đã tự đúc rút cho mình rất nhiều bài học quý báu trong cuốn tự truyện “Không bao giờ là thất bại – Tất cả là thử thách”. 

Chính vì thế, “Không bao giờ là thất bại – Tất cả là thử thách” cũng là một trong 5 cuốn sách Nền tảng đổi đời, được Chủ tịch Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ cẩn trọng tuyển chọn, viết thư ngỏ, và tổ chức trao tặng tận tay hàng triệu thanh niên Việt để khơi dậy chí lớn, tinh thần khởi nghiệp – kiến quốc.

Bài học thứ nhất: Suy nghĩ tích cực, không có thất bại

Trong số chúng ta, có lẽ bất kỳ ai cũng đều mong muốn sống hạnh phúc. Tuy nhiên, thế nào là hạnh phúc thì lại là câu hỏi không phải ai cũng dễ trả lời. Có đôi lúc, dù đã sở hữu bánh xe cuộc đời cân bằng với đủ 5 thành tố: Tình yêu, sức khỏe, mối quan hệ-vị thế xã hội, năng lực làm việc, tiền bạc, nhiều người vẫn cảm thấy mình không hạnh phúc và thường có cảm giác không thỏa mãn.

Đối với Chung Ju Yung, khi đã trải qua nhiều thăng trầm, đứng trên đỉnh cao sự nghiệp, ông quan niệm hạnh phúc khá đơn giản. Theo đó, hạnh phúc là dù ở trong hoàn cảnh, vị trí nào, làm việc gì, chúng ta đều rốc toàn tâm toàn lực để hoàn thành công việc, không phụ lòng những người xung quanh cũng như luôn nuôi dưỡng suy nghĩ tích cực, hướng tới tương lai tốt đẹp.

Chung Ju Yung

Trong quan niệm của Chung Ju Yung, suy nghĩ tích cực chính là nền tảng đầu tiên hình thành nên các nguồn năng lượng khác. Nó là khởi nguồn của sức mạnh tinh thần, từ đó có khả năng chuyển hóa thành sức mạnh thể chất, vật chất. Một người muốn mạnh mẽ, trước hết phải mạnh trong ý chí. Chúng ta chỉ có thể thành công nếu có lòng tin rằng mình sẽ làm được điều ấy.

Vì vậy tôi thường nghĩ, con người quan trọng nhất là có ý chí hay không mà thôi. Có ý chí thì chẳng việc gì là không làm được. Nếu mang suy nghĩ tích cực thì dù trời sập xuống cũng có lỗ chui ra, và việc gì cũng có thể làm được“.

Để chứng minh cho chiêm nghiệm ấy, Chung Ju Yung nhớ lại kỉ niệm ngày nhỏ. Khi đó, dù mới 10 tuổi, ông đã phải theo cha ra đồng làm việc quần quật dưới trời nóng đổ lửa. Nếu là người tiêu cực thì có lẽ, họ sẽ chỉ nghĩ rằng mình làm việc vất vả dưới ánh nắng mặt trời mà không biết đến niềm hạnh phúc nào khác. Đối với họ, cuộc sống lúc nào cũng chỉ toàn khuyết điểm. Nhưng Chung Ju Yung không như vậy. Từ nhỏ, ông sớm học được cách sống hạnh phúc với hiện tại và hài lòng với những gì đang có. Thay vì than trách, tức giận, ông tranh thủ ngủ giấc ngắn dưới bóng râm, tận hưởng cơn gió mát mẻ như vào chốn cực lạc và cảm thấy mình thật hạnh phúc.

Sau này lớn hơn một chút, ông dần muốn bỏ nhà ra đi tìm đường làm giàu. Để có lộ phí, Chung Ju Yung phải tích cóp từng đồng lẻ. Mỗi khi gánh thùng gỗ ra chợ bán, nhiều lần ông đói lả khi đi qua những quán hàng san sát nhưng nhất định giữ vững lòng quyết tâm. Chung Ju Yung chỉ lấy 1 đồng duy nhất trong số tiền bán gỗ ấy để mua 2 cái kẹo tí tẹo bỏ vào miệng, mút từng tí trên đường trở về nhà mà cảm thấy sung sướng vô cùng.

Năng lực giải quyết công việc phụ thuộc vào sự nỗ lực của mỗi người. Cách suy nghĩ tiêu cực và bi quan là rào cản của sự phát triển và trưởng thành. Người có suy nghĩ tiêu cực không phát huy được hết năng lực của mình, họ luôn bất mãn, oán trách, chán nản và từ đó lãng phí thời gian, sức lực nên thất bại và gục ngã, kết quả tuyệt vọng là đương nhiên” – Chung Ju Yung viết trong cuốn tự truyện Không bao giờ thất bại tất cả là thử thách.

chung ju yung

Tinh thần lạc quan và lòng tin rằng chỉ cần nỗ lực, mọi việc đều có thể thành công sau này đã theo ông đi đến hết cuộc đời. Theo năm tháng, đức tính quý ấy ngày càng trở nên sâu sắc, mạnh mẽ hơn. Chính nó đã giúp Chung Ju Yung cùng Hyundai làm nên những điều không tưởng. Một trong số đó là sự ra đời của nhà máy đóng tàu Ulsan.

Hồi đó, để có 80 triệu USD, Chung Ju Yung đã phải tìm đến các ngân hàng lớn trên thế giới hỏi vay. Khi đặt chân đến Barclays ở Anh, ông bị từ chối bởi chẳng có chút kinh nghiệm nào về việc làm ra loại tàu cỡ lớn, ngay đến cả kỹ thuật cũng không có. Tuy nhiên, vì thấy Chung Ju Yung quá kiên quyết với ý tưởng của mình, ngân hàng cũng đã thông qua Đại sứ quán để nắm được một số thông tin cơ bản về các lĩnh vực ở Hàn Quốc.

Sau đó, ngân hàng dẫn lời của Hiệp hội tàu thuyền Hàn Quốc là: “Không thể làm được”. Lúc đó, Chung Ju Yung đã nói với họ: “Tất cả mọi việc nếu nghĩ là làm được thì đều có thể làm được. Nếu mà Hiệp hội tàu thuyền nước tôi hoặc công ty tàu thuyền khác cho rằng việc này có thể làm được thì họ đã đến đây vay tiền các ông trước tôi. Chính vì họ nghĩ việc này không thể nên khi ai đó hỏi, đương nhiên họ sẽ nói không làm được. Nhưng tôi nghĩ rằng nhất định sẽ làm được. Mong các ông hãy thẩm định lại hồ sơ một lần nữa“.

Cuối cùng thì ngân hàng Barclays cũng đồng ý tái thẩm định hợp đồng và cho Hyundai vay 50 triệu USD. Ngẫm lại sự ra đời của xưởng đóng tàu Ulsan, Chung Ju Yung cho rằng, khởi đầu của nó trước hết nhờ câu nói: “Có thể làm được”.

Theo Chung Ju Yung, đó không phải là lời nói cho vui cũng không phải ngụy biện. Tất cả mọi việc đều như vậy, nếu chúng ta cứ suy nghĩ rằng không thể thì sẽ chẳng bao giờ làm được việc gì.

Tất cả mọi sự phát triển của nhân loại đều được hình thành dưới sự chỉ đạo và dẫn đường của những con người có lối suy nghĩ tích cực”.

chung ju yung

Bài học thứ hai: Thành bại của cuộc đời chính là hành động và thời gian

Từ nhỏ, Chung Ju Yung đã được thừa hưởng đức tính chăm chỉ, cần mẫn của cha mẹ. Thêm nữa, vì phải làm việc vất vả nên bẩm sinh ông rất ghét những người lười biếng. Chung Ju Yung hiểu rằng, con người hầu như ai cũng muốn lười nhác, thoải mái ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, nếu muốn vươn tới thành công, nhất định phải vượt qua rào cản ấy. Ngày hôm nay, những người xuất phát điểm khó khăn càng phải cố gắng gấp 5, gấp 10 lần người khác thì mới mong ngày mai có thể vượt được họ.

Có suy nghĩ tích cực là điều đáng quý nhưng chỉ nghĩ thôi thì chưa đủ. Đối với Chung Ju Yung, không gì lãng phí bằng chuyện để thời gian trôi đi mà không làm gì cả. “Với một doanh nghiệp thì điều đó hoàn toàn đúng, phải hành động mới có kết quả. Nếu chỉ tập hợp những người có đầu óc thông minh ngồi lại với nhau mà suy nghĩ thì doanh nghiệp không thể lớn mạnh được“.

Chung Ju Yung lấy ví dụ như khi bạn muốn gặp một ai đó, giữa việc là suy nghĩ rồi 1h sau mới gặp và đứng lên đi gặp luôn sẽ đem lại kết quả khác nhau. Tuy rằng chúng ta không thể thấy sự khác biệt lớn lao trong khoảng thời gian 1h mang lại nhưng rõ ràng, sự nhanh chậm, tính quyết đoán đã quyết định đến sự thành bại của công việc.

Với tôi, khi giao một công việc cho nhân viên dù khó đến mấy cũng không cho thời gian dài. Vì nếu cho thời gian dài họ sẽ lùi lại ngày mai, ngày kia, khi có việc khác lại vội cuống lên và rồi lại than phiền nhiều công việc nhưng cuối cùng thì kết quả chẳng ra gì và mọi thứ cứ tiếp nối nhau mà đến”.

Khi đã là chủ doanh nghiệp lớn, Chung Ju Yung thường đốc thúc công nhân trên tất cả công trường, nhà máy, xí nghiệp. Ở xưởng chế tạo thiết bị công nghiệp nặng, ông thường xuyên có mặt đến nỗi nhân viên từng hồn siêu phách lạc vì nghĩ hôm qua “sếp” đến kiểm tra rồi thì nay sẽ không đến nữa.

Để làm gương về thái độ luôn sẵn sàng hành động, tiết kiệm thời gian, sau những chuyến công tác dài ngày ở châu Âu, châu Mỹ, dù có mệt mỏi hay không thì ngày hôm sau, Chung Ju Yung vẫn đi làm bình thường. Trong khi các công ty khác thường cho nhân viên đi công tác ra nước ngoài khoảng thời gian nhất định để thích nghi với việc lệch múi giờ thì ở Hyundai không như vậy. Cả Chung Ju Yung lẫn nhân viên khi đến nơi là đi thẳng vào bàn họp và chẳng hề quan tâm đến các yếu tố bên ngoài.

Trong cuốn tự truyện của mình, Chung Ju Yung phân tích, các doanh nghiệp Nhật Bản từ lâu đã tự đặt ra triết lý kinh doanh của mình và đó là lý do vì sao họ không bị gục ngã. Doanh nghiệp Hàn Quốc dù rất nỗ lực nhưng vẫn chưa thể vượt qua sự đi trước cả 100 năm của họ. Vì thế, nếu muốn vươn lên thì phải tăng thời gian làm việc, bồi dưỡng doanh nghiệp có năng lực, chí tiến thủ.

Mỗi ngày chúng ta phải đổi mới, nếu hôm nay vẫn như hôm qua, ngày mai vẫn như ngày hôm nay là chúng ta đang lùi bước. Ngày hôm nay phải tốt hơn ngày hôm qua, ngày mai phải phát triển hơn ngày hôm nay. Đó mới là cuộc sống có ý nghĩa và như thế, xã hội loài người mới phát triển, hoàn thiện hơn.

Tôi tin rằng những người có chí tiến thủ, có kiến thức thì không việc nào lại không làm được“.

Bài học thứ ba: Cần cù, tiết kiệm làm nguồn vốn

Sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo khó nên từ nhỏ, Chung Ju Yung đã có tính tiết kiệm, cần cù. Theo ông, đó chính là nguồn vốn nội lực tạo nên uy tín mà uy tín cũng chính là danh dự.

Mỗi khi nhắc đến việc tiết kiệm, ông thường nhớ đến lần xem trên ti vi cảnh sinh hoạt của một thanh niên nông thôn với lời lẽ rất đáng học hỏi: “Trong số bạn của tôi cũng có người ra thành phố, mỗi tháng kiếm được cả trăm ngàn won. Tuy nhiên, số tiền đó phải dùng vào việc này việc kia nên cũng chỉ tiết kiệm được 10%. Còn thu nhập của tôi tuy không bằng một nửa bạn ấy nhưng mỗi tháng tôi tiết kiệm được một nửa số tiền tôi kiếm được. Chính vì thế, tôi làm việc nhiệt tình như bây giờ, tôi tin tưởng trong tương lai không xa, tôi sẽ giàu có hơn bạn ấy”.

Chung Ju Yung rất đồng tình với thanh niên đó. Theo ông, làm việc nhiệt tình và tiết kiệm triệt để sẽ giàu có hơn người lãng phí. Cùng một thời gian sống, có người thì làm được 10 lần, 20 lần, có người lại không làm được gì dù chỉ là một phần mấy mươi, một phần mấy trăm. Sự khác nhau chính là ở quá trình tích lũy và chịu đựng gian khó, làm việc chăm chỉ.

Soi chiếu lại bản thân mình, Chung Ju Yung khẳng định ông đã sống một đời rất giản dị, tiết kiệm. Thời còn đi làm thuê cho cửa hàng gạo, mỗi sáng, Chung Ju Yung đều thức dậy sớm để đi bộ đi làm, tiết kiệm tiền tàu điện 5 won mỗi ngày. Ông đi bộ nhiều đến nỗi đôi giày mòn vẹt. Vậy mà Chung Ju Yung cũng không nỡ vứt đi, ông tiếp tục đóng thêm một cái đế vào và tiếp tục sử dụng. Quần áo từ hè sang thu, ông chỉ có một bộ, khi đông đến thì mặc thêm áo lót bên trong. Muốn đọc báo, ông đọc nhờ của người khác. Nếu nhận lương 1 bao gạo 1 tháng, ông nhất định phải tiết kiệm 1 nửa, tất cả tiền thưởng, ông đều dành hết cho việc tiết kiệm.

Chung Ju Yung cố gắng thắt lưng buộc bụng, tiết kiệm từng đồng lương ít ỏi để gây dựng vốn liếng. Sau này, khi đã là chủ doanh nghiệp lớn, ông vẫn giữ lối sống giản dị, tránh xa cám dỗ, không dùng rượu bia, thuốc lá, không mua sắm những vật dụng không cần thiết.

Với cách sống như thế nên mỗi lần gặp công nhân, ông thường khuyên họ hãy tiết kiệm, ít nhất cũng đợi cho đến lúc mua được nhà hãng nghĩ đến chuyện sống thoải mái hơn. Việc tiết kiệm có thể thực hiện bằng những cách đơn giản, thiết thực như: Không hút thuốc, uống rượu, cafe, bài bạc, không mua vật dụng xa xỉ vì ví như ở nhà thuê mà mua tivi là không cần bởi nếu chỉ xem tin tức thì đọc báo và nghe radio cũng đủ, không mua sắm nhiều quần áo…

Theo Chung Ju Yung, tiết kiệm chính là một tiêu chí tạo nên uy tín. Lối sống ngay thẳng, dựa vào sức mình sẽ dần dần tạo cho chúng ta mối liên hệ với xung quanh mà đôi khi, chính chúng ta cũng không ngờ tới. Sự uy tín có được do cần cù và trung thực sẽ giúp chúng ta gặp được người hỗ trợ chẳng khó khăn gì.

Tôi không tin vào những người kiếm được bao nhiêu tiêu bấy nhiêu, dùng tiền trên cả mức kiếm được và luôn luôn mang nợ”.

Cùng với việc tiết kiệm, muốn xây dựng uy tín thì phải có thêm tính cần cù. Mỗi người phải luôn có ý thức về việc hành động mau lẹ, tiết kiệm thời gian, làm việc chăm chỉ thì mới mong có được tương lai tốt đẹp.

Một ngày làm việc cần cù thì đêm mới có thể ngủ ngon giấc, một tháng cần cù thì sẽ thấy cuộc sống của mình đi lên, một năm, hai, ba năm, cả cuộc đời cần cù thì sẽ phát triển to lớn. Cuộc sống của người cần cù sẽ ý nghĩa hơn biết bao nhiêu, họ có thể làm việc gấp bao lần người khác.

Sự cần cù chính là tính trung thực của cuộc đời. Chúng ta không cần cù thì sẽ không có uy tín“.

Bài học thứ tư: Giữ chữ tin – Vấn đề sống còn trong sự nghiệp

Trong cuộc đời Chung Ju Yung, đã rất nhiều lần ông làm nên thành công mà người ngoài nhìn vào thì dễ nghĩ đó là do may mắn. Ví như việc được ông chủ giao lại cửa hàng gạo, đấu thầu thành công cảng Dubai hay vay được tiền dù xưởng sửa chữa ô tô bị thiêu rụi hoặc đem tờ 500 won đến ngân hàng Barclays, vay thành công 50 triệu USD để đóng tàu dù chằng có tí kinh nghiệm nào về lĩnh vực này… Tuy nhiên, chỉ những ai hiểu về Chung Ju Yung mới biết, tất cả thành quả đó, cho dù là điều tưởng như ngẫu nhiên nhất cũng đều là trái ngọt được thu hoạch sau trường kỳ nỗ lực.

Đối với Chung Ju Yung, trong công việc, không có gì gọi là kỳ tích. Mọi thứ đều phải trả giá bằng sự nỗ lực và suốt cuộc đời mình, khởi đầu cho mọi thành công của Chung Ju Yung đều bắt nguồn từ hai chữ UY TÍN.

Trước đây, khi rời quê tìm đường khưởi nghiệp, Chung Ju Yung chẳng có lấy một đồng xu. Nếu chỉ gom tiền để trở thành doanh nghiệp lớn như Hyundai ngày nay thì chắc chắn ông không thể làm được. Tài sản mà Chung Ju Yung có nhiều hơn người khác chính là uy tín. Nhờ thế, ông được chủ cửa hàng giao lại cơ ngơi, bắt đầu kinh doanh với nguồn vốn duy nhất là người đáng tin cậy, đáng tin về cả tiền bạc, số lượng, chất lượng sản phẩm, thời gian, hợp đồng. Cứ như thế, khi uy tín ngày càng lớn, kết hợp tất cả uy tín ở những lĩnh vực khác gom lại, Chung Ju Yung đã tạo ra “đế chế” Hyundai hùng cường.

Từ cách đây khoảng 20 năm, chỉ một ngành xây dựng của Hyundai thôi cũng có thể giao dịch được với 20 ngân hàng lớn trong thị trường tiền tệ quốc tế. Không cần giấy bảo lãnh của chính phủ, không cần thế chấp, chỉ cần một lời hứa sẽ chi trả của công ty xây dựng Hyundai cũng có thể mượn được 2-3 tỷ USD (một số tiền rất lớn vào thời điểm đó).

Uy tín cũng là thứ tài sản mà Chung Ju Yung một lòng gìn giữ. Còn nhớ khi xưa lúc xây dựng cầu Koriong, Hyundai đã thua lỗ đến mức gặp nguy cơ phá sản. Để cứu lấy danh dự, Chung Ju Yung đã họp bàn với các anh chị em trong gia đình, đồng lòng bán hết nhà cửa, tài sản giá trị để bổ sung vốn, tiếp tục hoàn thành dự án.

Công trình đó đã khiến Hyundai mất 20 năm mới trả hết nợ nhưng Chung Ju Yung chưa một lần hối tiếc vì đã dốc toàn lực hoàn thiện nó. Trái lại, dù khi khó khăn, ông vẫn giữ được thứ mà tiền bạc không thể mua nổi, là CHỮ TÍN. Chính phủ tin vào tâm huyết và khả năng của Hyundai, và điều này mở đường cho một loạt dự án tiếp theo của tập đoàn.

Bài học thứ năm: Không bao giờ bỏ cuộc – chiêm nghiệm từ con ếch xanh và con rệp

Bài học về tinh thần không bỏ cuộc được Chung Ju Yung rút ra sau khi quan sát cách hành xử của chú ếch xanh và lũ rệp. Đó là những trải nghiệm từ thời niên thiếu luôn khắc sâu đến nỗi ám ảnh trong tâm trí ông. Chuyện là, có một con ếch xanh muốn nhảy lên cành dương liễu, nhưng vì cành cây cao quá nên nó không chạm được. Không nản chí, ếch xanh cứ nhảy, 10 lần, 20 rồi 30 lần… Và cuối cùng, nó cũng thành công!

Khi tới Incheon xin làm việc ở bến cảng, Chung Ju Yung đã không may thuê trọ phải nơi rệp nhiều vô kể. Để thoát khỏi cảnh ngứa ngáy vì bị rệp cắn thâu đêm, ông đã kê bát nước vào 4 chân giường khiến lũ rệp không thể leo lên. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau, lũ rệp đã tìm ra con đường mới là leo lên nóc nhà rồi thả mình rơi xuống đúng người để đốt.

Lũ rệp đã vượt qua trở ngại là bát nước, toàn tâm toàn ý cố gắng và đạt được mục tiêu mình muốn. Chú ếch xanh cũng đã nỗ lực phi thường để có thể ngồi trên cành cây cao mình hằng mơ ước. Ếch xanh hay lũ rệp còn làm được như vậy huống chi chúng ta là con người. Chung Ju Yung thường lấy đó làm nguồn động viên mỗi khi gặp khó khăn, thất bại. Đối mặt với thách thức, điều đầu tiên Chung Ju Yung thường củng cố chính là tinh thần không bao giờ bỏ cuộc.

Ví như để thuyết phục Trưởng phòng bảo an Condo của Đồn cảnh sát Dongdeamun cho phép xưởng sửa chữa ô tô của mình được hoạt động, suốt 1 tháng, ngày nào Chung Ju Yung cũng có mặt, vào đúng cùng một khoảng thời gian, kiên trì trình bày vấn đề đến khi nào đối phương chịu thỏa hiệp mới thôi.

Sau này, khi ra nước ngoài vay vốn để xây nhà máy đóng tàu quy mô lớn, ông bị từ chối khá nhiều lần nhưng Chung Ju Yung vẫn quyết tâm không từ bỏ. Ông tìm mọi cách để thuyết phục ngân hàng Barclay. Đầu tiên là thông qua người giới thiệu – Chủ tich Longbottom của Epuldoor, sau đó là thuyết phục Ban Giám đốc ngân hàng Barclays, Chủ tịch Tổ chức Bảo lãnh xuất khẩu Anh (ECGD)… Sau khi đã khiến tất cả những người có ảnh hưởng lớn trong nền kinh tế nước Anh đồng ý, Chung Ju Yung vẫn phải tiếp tục chứng minh khả năng có thể bán được tàu. Ông tiếp tục chào hàng dù chẳng có con tàu nào trong tay và nhờ uy tín, đã được Libanos, người con trai tài giỏi của vua tàu biển Onasis, chủ công ty vận tải biển cực lớn của Hi Lạp đặt cọc trước 1,4 tỉ won, hẹn 5 năm sau nhận 2 chiếc tàu 260.000 tấn.

Việc vay số tiền khổng lồ (bằng 1/6 tổng nợ nước ngoài của cả nước) để xây nhà máy đóng tàu trong bối cảnh chẳng hề có chút kinh nghiệm nào là điều không tưởng đối với rất nhiều người nhưng Chu Ju Yung luôn tin là mình có thể làm được. Trong quá trình chinh phục những giấc mơ lớn nối tiếp nhau, mỗi khi gặp khó khăn, ông lại nhớ đến bài học của chú ếch xanh và lũ rệp. Ông coi mọi vấp ngã chỉ là thử thách và nếu có đủ lòng tin, sự quyết tâm, nỗ lực tương xứng, chúng ta có thể thành công khi làm bất cứ việc gì.

Bài học thứ sáu: Lột bỏ rào cản của lối suy nghĩ cũ

Chung Ju Yung cho rằng, tất cả chúng ta ai cũng ít nhiều mang trong mình lối suy nghĩ cũ, bị trói buộc vào một số quan niệm cố định. Lối suy nghĩ cũ này rất nguy hiểm bởi trong điều kiện bình thường, chúng ta vẫn là những người có năng lực nhưng lúc gặp nghịch cảnh, lập tức biến thành kẻ bất tài.

Trong sách Luận ngữ có câu: “Quân tử bất khí” có nghĩa là đã là quân tử, phải biết nhiều thứ., có năng lực làm nhiều việc dù ở bất kể vị trí nào.

Con người thường lệ thuộc vào các nguyên tắc và nguyên lý nhưng muốn thành công trong xã hội hiện tại, chúng ta phải gạt bỏ được những điều cứng nhắc ấy để dễ thích nghi với hoàn cảnh.

“Nếu trở thành nô lệ của lối suy nghĩ cũ thì sẽ không có tính thích ứng. Suy nghĩ theo sách giáo khoa cũng là một cạm bẫy. Con người tài giỏi phải vượt qua cạm bẫy một cách trí tuệ”, Chung Ju Yung viết trong tự truyện không bao giờ thất bại tất cả là thử thách.

Ông kể lại một câu chuyện khá thú vị khi xây dựng nhà máy đóng tàu Ulsan. Lúc đó, các chuyên viên kỹ thuật cho rằng muốn vận chuyển linh kiện lắp ráp xuống đáy sâu 12m phải nhờ đến một chiếc cần cầu khổng lồ mới thực hiện được, ngay lập tức, Chung Ju Yung cho rằng đó chỉ là lý thuyết có trong SGK. Ông đã đưa ra giải pháp dùng tảng bê tông đúc sẵn lên bánh xe trượt rồi dùng độ nghiêng của dốc kéo ngược lại, cho xe chạy từ từ để đưa vật liệu xuống đáy biển. Cứ như thế, toàn bộ khối bê tông đã được chuyển xuống đáy của bến đỗ mà chẳng cần có một chiếc cần cầu khổng lồ nào xuất hiện.

Tương tự, khi xây dựng xưởng lắp ráp ở nhà máy đóng tàu, vì tốc độ gió quá cao nên công nhân cho rằng phải xây những cây cột thật lớn, kiên cố thì mới có thể chịu được. Chung Ju Yung cho rằng đó là giải pháp không hợp lý, gây tốn kém và ông cho rằng, chỉ cần đóng cọc thay thế là đủ.

Tất nhiên, Chung Ju Yung rất hiểu giải pháp mà cấp dưới đưa ra. Tuy nhiên, trong những tình huống cấp thiết, cần phải tư duy sao cho phù hợp với hoàn cảnh thì cách suy nghĩ lối mòn không đem lại kết quả.

Khi đặt hàng 2 chiếc tàu cơ lớn 260.000 tấn, có lẽ chính Libanos cũng không nghĩ Chung Ju Yung có thể hoàn thành sớm nên đã gia hạn 5 năm. Tuy nhiên, Chung Ju Yung đã phá vỡ quy luật thông thường, vừa xây nhà máy, vừa đóng tàu và chỉ sau hơn 30 tháng từ ngày vay vốn, 2 chiếc tàu đầu tiên đã hoàn thành.

“Nếu tất cả mọi việc đều được xử lý theo lối suy nghĩ dễ dàng thì khi gặp khó khăn sẽ trở nên lười nhác, điều này là không được. Lối suy nghĩ thích làm việc dễ dàng cũng chẳng khác gì lối suy nghĩ cũ”.

Bài học thứ bảy: Quan niệm đúng đắn về thành công và giá trị của đồng tiền

Trong vấn đề xài tiền, Chung Ju Yung có nguyên tắc là dù tiền ít hay nhiều cũng không nên để lộ ra ngoài. Lấy việc cho tiền boa tại nhà hàng làm ví dụ. Nếu người ta cho tiền mà không để người khác biết thì mới là phải phép còn những việc dán tiền vào trước ngực các cô gái phục vụ chẳng khác nào hành vi khinh thường một con người.

“Tôi nghĩ việc dùng tiền để chứng tỏ mình, tự hào về tiền là sai lầm của con người”.

Trong cuốn tự truyện của mình, Chung Ju Yung nói rằng, mỗi lần thấy báo chí xếp hạng ông là người có thu nhập cá nhân đứng đầu cả nước, ông lại thấy có lỗi với người nghèo. “Người ta hay hỏi tôi dùng số tiền lớn đó để làm gì nhưng thực tế, cuộc sống của tôi không cao hơn tầng lớp trung lưu”.

Khái niệm trung lưu của ông có nghĩa là mức sống của Chung Ju Yung chỉ như một nhân viên. Tổng diện tích nhà ở của ông chỉ 900m2 với 300m2 xây nhà ở – một quỹ đất không phải quá lớn cho cả gia đình. Ông thường đi xe hãng Stera, Sonata, Granger chứ không phải là những siêu xe quá đắt đỏ nhưng vẫn còn cảm thấy xấu hổ với nhân viên, với người dân thu nhập thấp.

Trong sinh hoạt hàng ngày, ông chỉ thích ăn rau xanh, trái cây, thi thoảng ăn thịt bò, dùng trà sâm. Ngoài ra trong khẩu phần ăn uống cũng chẳng có gì đặc biệt hơn mọi người.

“Tôi nghĩ con người ta sống không phải để ăn mặc cho sang trọng mà quan trọng là họ có ảnh hưởng đến người khác như thế nào”.

Dù sở hữu tài sản lớn nhưng sự thật là Chung Ju Yung đã sống mà chẳng hề có cảm giác mình là người giàu có. 30% lợi nhuận sẽ chảy về ngân sách làm giàu cho đất nước. Doanh nghiệp của ông thực chất chỉ giữ lại một khoản để tái đầu tư và tạo thêm việc làm. Trong suy nghĩ của Chung Ju Yung, khi doanh nghiệp nhỏ, nó có thể là tài sản của cá nhân nhưng lúc lớn mạnh, đó là tài sản chung của người lao động và của cả dân tộc. Người chủ doanh nghiệp, suy cho cùng cũng chỉ là kẻ được mọi người tín nhiệm, thuê để quản lý, điều hành công ty.

“Tôi hoàn toàn không quan tâm đến việc công ty có bao nhiêu tiền. Tôi nghĩ rằng đồng tiền trong túi tôi và tiền để tôi nuôi sống gia đình mới chính là tiền của tôi. Ngoài mục đích đo ra, tiền còn lại không phải sở hữu của tôi… Tôi làm việc không mệt mỏi vì yêu thích công việc chứ không phải vì muốn mở rộng tài sản, trở thành người giàu có nhất đất nước Hàn Quốc này”.

Từ chỗ quan niệm đúng về giá trị đồng tiền và vấn đề tiêu xài, Chung Ju Yung có cách nhìn nhận, đối nhân xử thế rất hài hòa. Thời điểm khi ông viết tự truyện, Hyundai có khoảng160.000 nhân viên. Nhiều người thường nói Chung Ju Yung đã giúp nuôi sống họ nhưng ông không bao giờ đồng ý với quan niệm ấy. Theo ông, chính những người nhân viên đã làm cho Hyundai, cho bản thân ông trở nên mạnh hơn. Họ là những người cộng sự, cùng ông làm việc để tạo nên giá trị, dựa vào nhau mà sống chứ chẳng có chuyện ai nuôi ai, ai là chủ nhân của ai.

“Nơi làm việc là nơi ta giúp đỡ nhau do sự cần thiết, nơi mà mọi người đều ảnh hưởng lên nhau. Sự lên mặt ta đây chính là cách suy nghĩ của các cá nhân tự đề cao mình”.

Đối với Chung Ju Yung, chỉ vì yêu cầu công việc nên mới có thứ tự trên dưới, còn về nhân cách hay tất cả mọi mặt khác, ai cũng đều bình đẳng như ai. Con người nếu muốn thành công thì phải bỏ qua được cái tôi ngạo mạn, có lòng biết ơn với tất cả những người đồng hành, giúp đỡ mình.

Từ chỗ quan niệm đúng về thành công, về giá trị con người và đồng tiền, ông cho rằng, một xã hội muốn phát triển thì phải lấy yếu tố trong sạch làm trọng. Muốn vậy, chúng ta phải định nghĩa lại khái niệm về sự giàu có. Theo ông, nói giàu có mà chỉ đề cập tới vật chất thì quả là sai lầm. Mục tiêu của tất cả mọi người là sống và nỗ lực đạt được điều mình muốn chứ không phải hoàn toàn vì vật chất. “Tôi nghĩ, người nào thành công trong việc mình muốn làm mới chính là người giàu có chứ không phải là thành công về vật chất.

Lối suy nghĩ xem ai là thứ dân hoặc người nghèo chỉ vì họ không có tài sản tiền bạc dù  có trình độ tri thức, uy tín xã hội cao là một lối suy nghĩ nguy hiểm. Xã hội nào đặt tiền bạc lên vị trí cao nhất thì thật là nguy hiểm, không thể chờ đợi sự phát triển lành mạnh, hạnh phúc được“, Chung Ju Yung khẳng định.

* Nội dung các bài viết được rút từ tự truyện “Không bao giờ là thất bại, Tất cả là thử thách”của người sáng tập Tập đoàn Hyundai Chung Ju Yung và nhiều tài liệu tham khảo khác. Đây là một trong 5 cuốn sách quý nền tảng đổi đời được Chủ tịch Tập đoàn Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ tự tay tuyển chọn, viết thư ngỏ, với mong mỏi sách sẽ đến tay tất cả các bạn trẻ và nhân dân cả nước, để thay đổi nhận thức, thôi thúc khát vọng vươn lên làm giàu, cùng xây dựng đất nước hùng cường.

Nguồn bài viết: Trung Nguyên Legend

Nhan Thế Luân – CEO NhacCuaTui khởi nghiệp với 10 USD

Từ một website “làm cho vui”, Nhan Thế Luân đã biến nó thành trang nhạc trực tuyến với hàng triệu người dùng mỗi ngày.

Ý tưởng tạo ra một trang nghe nhạc trực tuyến đến với Nhan Thế Luân (sinh năm 1982) một cách rất tự nhiên. Kể cả khi anh bỏ ra 10 USD đầu tiên để mua một tên miền nghe rất dân dã, thuần miền Nam “Nhaccuatui.com”, trang web vẫn chỉ như một sở thích được chia sẻ âm nhạc với mọi người.

Nhan Thế Luân - CEO Công ty NCT Corporation
Nhan Thế Luân – CEO của Công ty NCT Corporation. Ảnh: NVCC

Thế rồi, đến một ngày bạn bè nói với Luân: “Sao không làm gì với nó đi” khi lượng người truy cập trang đạt con số vài nghìn. Và Luân quyết định sẽ “”làm gì đó” – bỏ công việc ổn định với mức lương vài trăm đô mỗi tháng tại một công ty phần mềm để chuyên tâm xây dựng website này.

Từ 60 triệu đồng vay từ mẹ để mua máy chủ đầu tiên, Nhan Thế Luân đã thành lập NCT Corporation vào 2007. Doanh thu từ quảng cáo năm đó đạt 300 triệu đồng. Đến 2010, con số này đã là 10 tỷ và dự kiến năm 2011 lên tới 20 tỷ đồng, trong đó 80% đến từ quảng cáo và thu phí người dùng, dịch vụ tổ chức event chiếm 20% còn lại. Sau 4 năm, lượng khách truy cập vào trang nhạc đã lên tới con số hàng triệu người mỗi ngày.

Tận dụng lợi thế thông thạo Internet và công nghệ, suốt 4 năm qua Nhan Thế Luân chưa tốn một đồng nào cho chi phí quảng cáo quảng bá hình ảnh. Gần đây nhiều người mới chú ý đến thuật ngữ SEO nhưng từ năm 2007, Nhan Thế Luân đã dùng SEO – Tối ưu hóa công cụ tìm kiếm để Nhaccuatui.com ngày càng được biết đến nhiều hơn.

Bên cạnh mảng hoạt động chính là âm nhạc, Nhaccuatui đang phát triển thêm các sản phẩm vệ tinh như Nava.vn – chợ thương mại điện tử và sắp tới có thể một trang web về hẹn hò. Nava.vn cũng đang có những bước phát triển mạnh, như cách đây 5 năm mỗi ngày chỉ có 10 đến 15 đơn hàng thì nay lên khoảng 200 đơn hàng.

Tham vọng của chàng trai trẻ là đến năm 2015, Nhaccuatui sẽ đứng vào hàng ngũ những công ty Internet hàng đầu Việt Nam về lĩnh vực giải trí và thương mại điện tử, với lượng người truy cập lên con số 10 triệu. “Đó là những mục tiêu chính, còn mục tiêu phụ là bản thân mình sẽ giàu”, Nhan Thế Luân cười nói.

Trong kinh doanh, nhất là lĩnh vực nhạc trực tuyến, Nhân Thế Luân cho rằng yếu tố con người là quan trọng nhất, quyết định khả năng thắng hay thua của doanh nghiệp. Nếu như cách đây 4 năm, Việt Nam có hàng trăm website nghe nhạc trực tuyến thì nay số lượng trang được biết đến chỉ còn trên đầu ngón tay. “Trong ngành này, ai có nội dung tốt thì sẽ thắng, mà con người chính là cha đẻ của nội dung”, CEO trẻ này cho biết.

Luân tâm sự, với đặc thù trang web như Nhaccuatui cũng khó mà kiện được nếu nhạc không có bản quyền vì người dùng tự đẩy bài hát lên và tự chia sẻ. Tuy nhiên, anh đã quyết định mua bản quyền nhạc Việt từ rất sớm. Vào năm 2007 dù chỉ lập trang web để “chơi chơi”, anh đã đi gặp Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam để mua bản quyền nhạc Việt. Gần đây nhất, Nhaccuatui cũng đàm phán xong với 2 hãng ghi âm nổi tiếng thế giới là Universal và Sony để mua bản quyền nhạc quốc tế sau 2 năm thương thảo.

Tiền bản quyền không hề rẻ nhưng bản thân Nhân Thế Luân cho biết vẫn vui khi tự nguyện làm việc đó. Dù doanh thu hàng năm ở mức cao, hiện nay Nhaccuatui vẫn chưa có lợi nhuận, thậm chí lỗ một phần vì phải để dành tiền trả phí bản quyền. “Quan niệm của tôi là khi mình kiếm được 10 đồng, những người đã tạo ra nội dung cho mình kinh doanh cũng phải được chia một phần trong đó”, Nhan Thế Luân nói.

Chưa có lợi nhuận nhưng Nhan Thế Luân vẫn rất lạc quan: “Với tình hình phát triển như hiện nay với doanh thu quảng cáo năm này gấp đôi năm trước, chỉ 3 đến 4 năm nữa là Nhacuatui sẽ có lời”.

Là người sáng lập của CEO của một website âm nhạc, nhưng âm nhạc không phải là niềm đam mê của Nhan Thế Luân. Niềm vui lớn nhất của anh là chơi với đứa con 2 tuổi sau mỗi ngày từ công ty về nhà.

Ngày 31/11/2011, CEOOEC

Môi trường làm việc ở Mỹ và Trung Quốc

Đây là một đoạn trích trong cuốn 42 năm làm ăn ở Mỹ và Trung Quốc của Alan Phan, mình thấy rất thú vị vì nó nói rõ sự khác biệt giữa môi trường làm việc, văn hóa và cả thái độ làm việc giữa người phương Tây và người châu Á nói chung.

Trong các cuộc họp ở Mỹ, ngay cả cô thư ký trong công ty vốn chỉ có nhiệm vụ ghi chép lại nội dung cuộc họp cũng có quyền và thích đứng lên góp ý kiến về… chiến lược của công ty. Ngược lại, từng tham gia nhiều cuộc họp ở các công ty Trung Quốc, tôi ít thấy ý kiến của nhân viên, mà phần lớn đề tài thảo luận dựa trên sự chủ động của lãnh đạo (nói và nói).

Chính vì lối văn hóa khác biệt này, khi bước vào một công ty ở Trung Quốc, tôi lập tức được nhân viên lễ phép cúi chào. Còn ở Mỹ, nhìn thấy tôi đi vào, nhân viên còn gác chân lên ghế nói chuyện riêng tư qua điện thoại, chứ đừng nói đến chuyện chào hỏi.

Bản thân mình cũng đã trải nghiệm qua việc này. Trong các cuộc họp hoặc tranh luận giữa các thành viên trong công ty, dù không phải chuyên môn của mình (frontend) thì mình vẫn thoải mái nhảy vào tranh luận hoặc đưa ra ý kiến. Và tất cả mọi người đều rất lắng nghe.

Đây cũng là một điểm thuận lợi khi bạn muốn chủ động thể hiện khả năng của mình, và đạt được lòng tin của mọi người. Trong trường hợp của mình thì sau vài lần nhảy vào góp ý như vậy, bây giờ mình luôn được chủ động mời vào tham gia các buổi họp khi đưa ra quyết định về kĩ thuật trong team.

Tiếp.

Nhưng bù lại, tôi có thể khẳng định, năng suất làm việc của nhân viên Mỹ gấp khoảng năm lần nhân viên Trung Quốc trong cùng một lĩnh vực.

Tôi có thuê một kỹ sư Mỹ làm việc tại nhà máy ở Trung Quốc. Khi máy hỏng, anh ta miệt mài sửa chữa cho bằng được, dù lúc đó đã là 11 – 12 giờ đêm. Một kỹ sư Trung Quốc khác ở đây sẽ về đúng 5h30 chiều dù công việc chưa xong.

Bên Mỹ, khi chọn nhân viên, tôi thích nhân viên Mỹ gốc Trung Quốc, bởi họ đạt được cả hai điều: hiệu suất và lễ phép.

Cái này thì cũng đúng luôn.

Thái độ làm việc của mấy bạn bên này rất nghiêm túc. Tinh thần trách nhiệm cực kỳ cao. Một phần cũng vì văn hóa bên này, chuyện hình ảnh và uy tín là rất quan trọng, mà để tạo dựng được hình ảnh tốt của bản thân, không có cách gì khác ngoài việc thể hiện qua công việc.

Nói đi cũng phải nói lại, bản thân mình cố gắng thôi vẫn chưa đủ, quan trọng là ở giới lãnh đạo trong công ty, họ cũng rất lưu ý nếu có ai làm việc cống hiến, hoặc có ai làm việc lười biếng, cẩu thả. Chỉ có điều họ không nói ra, nhưng mọi thứ vẫn được ngấm ngầm ghi nhận.

Về chuyện năng suất làm việc của người Mỹ so với người Trung Quốc (hay châu Á nói chung) thì mình không có bình luận gì. Đa số những nhận xét của người phương Tây (hoặc như bác Alan Phan, là chủ doanh nghiệp phía Mỹ) về nhân viên ở châu Á, là mối quan hệ kiểu “làm thuê”, mà bản tính dân châu Á thì ăn chắc mặc bền, người ta thuê mình làm bao nhiêu, mình chỉ làm bấy nhiêu đó thôi, để còn về lo cho gia đình và vợ con nữa, cho nên mới có chuyện “đúng 5h30 đi về”. Còn đâu những thứ như công việc, hay lợi ích công ty, vốn đã nằm ngoài scope của một người “đi làm thuê’ rồi.

Chính vì vậy mà nhìn nhận của phần lớn các ông chủ phương Tây với người làm công ở châu Á (kể cả Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam,…) đều không tốt đẹp gì mấy.

Còn bản thân người châu Á khi đi ra các nước phương Tây làm việc, họ làm việc rất hăng máu. Một phần là để chứng tỏ bản thân trong mắt đồng nghiệp và người quản lý, cộng thêm bản tính chịu khó và cần cù, thông minh, đa số kết quả là về năng suất, họ không thua kém gì dân bản xứ, có khi còn vượt trội hơn. Và vì mang trong mình dòng máu châu Á, người ta ít khi ca thán hay đòi hỏi, ý kiến này nọ (thực ra là quen cái nếp sống ở nhà), đâm ra lại được lòng nhà quản lý hơn mấy anh bạn Tây.

Bản thân mình khi vào công ty, vì quen với cách hành xử khi còn ở Việt Nam, khi sếp hỏi cần gì không, mình chỉ yêu cầu 1 cái laptop và 1 cái màn hình, còn mấy anh bạn trong team thì nào là màn hình đôi, bàn standing desk, giá đỡ laptop, đèn bàn, fidgets… đủ kiểu :)) giờ nghĩ lại thấy mình dại ghê luôn 🙁

Nguồn bài viết: thefullsnack.com

Microsoft Việt Nam bổ nhiệm tân Tổng Giám Đốc

Theo thông báo đăng tải trên trang chủ ngày 22/01/2018, Microsoft chính thức bổ nhiệm ông Phạm Thế Trường vào vị trí Tổng Giám Đốc Việt Nam. Với hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh phần mềm và từng tham gia công tác điều hành tại nhiều công ty công nghệ hàng đầu, Microsoft tin rằng sứ mệnh của tập đoàn sẽ sớm được hoàn thành tại Việt Nam với tân Tổng Giám Đốc.

Trước khi gia nhập Microsoft, ông Phạm Thế Trường là Tổng Giám Đốc điều hành SAP Việt Nam từ năm 2012. Dưới sự điều hành của ông, SAP đã đạt được mức tăng trưởng ngoạn mục trong 5 năm qua. Ông đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nền tảng vững chắc cho cuộc hành trình chuyển đổi số của SAP.

Trước SAP, ông Trường đảm nhiệm vị trí Giám đốc Bán hàng của Oracle Việt Nam. Ông đóng vai trò quan trọng, giúp mở rộng các công nghệ mới nhất của Oracle tại nhiều phân khúc thị trường khác nhau ở Việt Nam.

Tại Microsoft, ông Trường sẽ chịu trách nhiệm quản lý sản phẩm, dịch vụ và hỗ trợ tại Việt Nam, và quan trọng hơn, góp phần giúp Microsoft tiến nhanh hơn trên hành trình trở thành tập đoàn dẫn đầu thế giới về nền tảng và hiệu năng.

Chủ tịch Microsoft Châu Á Thái Bình Dương, Andrea Della Mattea bày tỏ: “Chúng tôi rất vui mừng khi ông Trường trở thành một thành viên của Microsoft. Ông là một người dẫn đầu đầy kinh nghiệm, với sự lãnh đạo tuyệt vời, hiểu biết sâu sắc và những thành công vô giá. Việt Nam đang có một quỹ đạo tăng trưởng đáng kinh ngạc và tôi chắc chắn rằng ông Trường sẽ có những đóng góp vô giá giúp khách hàng và đối tác của tập đoàn đẩy nhanh sự chuyển đổi số.

Đáp lại kỳ vọng trên, Tân Tổng Giám Đốc cho biết: “Tôi rất vui được là một phần của Microsoft, một trong những tập đoàn công nghệ dẫn đầu thị trường. Trong vai trò mới này, tôi thấy một cơ hội tuyệt vời, cùng các đối tác, tôi tin rằng những công nghệ toàn diện của Microsoft sẽ trở thành động cơ chính, thúc đẩy khát vọng kỹ thuật số và sự phát triển của khách hàng.”

Ông Phạm Thế Trường tốt nghiệp Thạc sỹ Quản Trị Kinh Doanh và Hệ Thống Thông Tin. Ông cũng là một thành viên tích cực trong cộng đồng CNTT tại Việt Nam, tham gia đóng góp trên nhiều phương diện cho nhiều hoạt động của cộng đồng.

Link bài viết: https://news.microsoft.com/vi-vn/2018/01/22/microsoft-viet-nam-bo-nhiem-tan-tong-giam-doc/